E-mail
Tiếng Việt
English
Vietnam destinations
Wonders of the World
Songs
Unedited
Country name origins
Nguồn Gốc Một Số Địa Danh Miền Nam
Nguồn Gốc Một Số Địa Danh Miền Nam
Xin giới thiệu cùng các bạn bài viết của một người bạn về "Nguồn gốc một số địa danh miền Nam",theo tôi rất đáng để chúng ḿnh tham khảo t́m hiểu thêm về quê hương! Sơ lược về nguồn gốc một số địa danh miền Nam Hồ Đ́nh Vũ. Có nhiều nơi ở miền Nam ḿnh đă đi qua, đă ở đó, đă nghe nói tới hoặc đă đọc được ở đâu đó...riết rồi những địa danh đó trở thành quen thuộc;nhưng chắc ít khi ḿnh có dịp t́m hiểu tại sao nó có tên như vậy? Bài viết này được h́nh thành theo các tài liệu từ một số sách cũ của các học giả miền Nam: Vương Hồng Sển, Sơn Nam và cuốn Nguồn Gốc Địa Danh Nam Bộ của Bùi Đức Tịnh, với mục đích chia sẻ những hiểu biết của các tiền bối về tên gọi một số địa phương trên quê hương ḿnh. Xin mời các bạn cùng tham khảo và đóng góp ư kiến từ các nguồn tài liệu khác - để đề tài này được đầy đủ và phong phú hơn. Phần 1 Tên do địa h́nh, địa thế Bắt đầu bằng một câu hát dân gian ở vùng Ba Tri, tỉnh Bến Tre: "Gió đưa gió đẩy, về rẫy ăn c̣ng, về bưng ăn cá, về giồng ăn dưa..." Giồng là chỗ đất cao hơn ruộng, trên đó nông dân cất nhà ở và trồng rau, đậu, khoai củ cùng một số loại cây ăn trái. Bởi vậy nên mới có bài hát: "trên đất giồng ḿnh trồng khoai lang..." Một con giồng có thể bao gồm một hay nhiều xă. Ở Bến Tre, Giồng Trôm đă trở thành tên của một quận (huyện). Lại nhắc đến một câu hát khác: "Ai dźa Giồng Dứa qua truông Gió rung bông sậy, bỏ buồn cho em..." Giồng Dứa ở Mỹ Tho, khoảng từ chỗ qua khỏi ngă ba Trung Luơng đến cầu Long Định, ở bên phải quốc lộ 4 là Giồng Dứa. Sở dĩ có tên như thế v́ vùng này ở hai bên bờ sông có nhiều cây dứa. (Dứa đây không phải là loại cây có trái mà người miền Nam gọi là thơm, khóm. Đây là loại cây có lá gai dáng như lá thơm nhưng to hơn và dày hơn, màu xanh mướt. Lá này vắt ra một thứ nước màu xanh, có mùi thơm dùng để làm bánh, đặc biệt là bánh da lợn). Vừa rồi có nhắc đến truông, hồi xưa về Giồng Dứa th́ phải qua truông, vậy truông là ǵ? Truông là đường xuyên ngang một khu rừng, lối đi có sẵn nhưng hai bên và phía trên đầu người đi đều có thân cây và cành lá bao phủ. Ở vùng Dĩ An có truông Sim. Ở miền Trung, thời trước có truông nhà Hồ. "Thương em anh cũng muốn vô Sợ truông nhà Hồ, sợ phá Tam Giang" Tại sao lại có câu ca dao này? Ngày xưa truông nhà Hồ thuộc vùng Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị, c̣n gọi là Hồ Xá Lâm. Nơi đó địa h́nh trắc trở, thường có đạo tặc ẩn núp để cướp bóc nên ít người dám qua lại. Phá là lạch biển, nơi hội ngộ của các con sông trước khi đổ ra biển nên nước xoáy,sóng nhiều thường gây nguy hiểm cho thuyền bè. Phá Tam Giang thuộc tỉnh ThừaThiên, phía bắc của phá Tam Giang là sông Ô Lâu đổ ra biển, phía nam là sông Hương đổ ra cửa Thuận An. Bàu là nơi đất trũng, mùa mưa nước khá sâu nhưng mùa nắng chỉ c̣n những vũng nước nhỏ hay khô hẳn. Khác với đầm, v́ đầm có nước quanh năm. Ở Sài G̣n, qua khỏi Ngă Tư Bảy Hiền chừng 1 km về hướng Hóc Môn, phía bên trái có khu Bàu Cát. Bây giờ đường xá được mở rộng, nhà cửa xây rất đẹp nhưng mùa mưa vẫn thường bị ngập nước. Ở Long Khánh có Bàu Cá, Rạch Giá có Bàu C̣. Đầm chỗ trũng có nước quanh năm, mùa mưa nước sâu hơn mùa nắng, thường là chỗ tận cùng của một ḍng nước đổ ra sông rạch hoặc chỗ một con sông lở bờ nước tràn ra hai bên nhưng vẫn ḍng nước vẫn tiếp tục con đường của nó. Ở Cà mau có Đầm Dơi,Đầm Cùn. Ở quận 11 Sài G̣n có Đầm Sen, bây giờ trở thành một trung tâm giải trí rất lớn. Bưng từ gốc Khmer là bâng, chỉ chỗ đất trũng giữa một cánh đồng, mùa nắng không có nước đọng, nhưng mùa mưa th́ ngập khá sâu và có các thứ lác, đưng... mọc. Mùa mưa ở bưng thường có nhiều cá đồng. "...về bưng ăn cá, về giồng ăn dưa". Ở Ba Tri, tỉnh Bến Tre, có hai bưng là Bưng Trôm và Bưng Cốc. Láng chỗ đất thấp sát bên đường nước chảy nên do nước tràn lên làm ngập nước hoặc ẩm thấp quanh năm. Ở Đức Hoà (giữa Long An và Sài G̣n) có Láng Le, được gọi như vậy v́ ở láng này có nhiều chim le le đến kiếm ăn và đẻ. Vùng Khánh Hội (quận 4 Sài G̣n) xưa kia được gọi là Láng Thọ v́ có những chỗ ngập do nước sông Sài G̣n tràn lên. Người Pháp phát âm Láng Thọ thành Lăng Tô, một địa danh rất phổ biến thời Pháp thuộc. Trảng chỗ trống trải v́ không có cây mọc, ở giữa một khu rừng hay bên cạnh một khu rừng. Ở Tây Ninh có Trảng Bàng, địa danh xuất phát từ một cái trảng xưa kia có nhiều cỏ bàng v́ ở vùng ven Đồng Tháp Mười. Ở Biên Hoà có Trảng Bom, Trảng Táo. Đồng khoảng đất rất rộng lớn bằng phẳng, có thể gồm toàn ruộng, hoặc vừa ruộng vừa những vùng hoang chưa khai phá. Một vùng trên đường từ Gia Định đi Thủ Đức, qua khỏi ngă tư B́nh Hoà, trước kia toàn là ruộng, gọi là Đồng Ông Cộ. Ra khỏi Sài G̣n chừng 10 km trên đường đi Lái Thiêu có Đồng Chó Ngáp, được gọi như thế v́ trước kia là vùng đất phèn không thuận tiện cho việc cày cấy, bị bỏ hoang và rất vắng vẻ, trống trải. Ở Củ Chi có Đồng Dù, v́ đă từng dược dùng làm nơi tập nhảy dù. Và to, rộng hơn rất nhiều là Đồng Tháp Mười. Hố chỗ đất trũng, mùa nắng khô ráo nhưng mùa mưa có nơi nước lấp xấp. Ở Củ Chi có Hố Ḅ, v́ ḅ nuôi trong vùng thường đến đó ăn cỏ. Biên Hoà có Hố Nai, là nơi những người Bắc đạo Công Giáo di cư năm 1954 đến lập nghiệp, tạo thành một khu vực sầm uất. huynhminhthanh Members Tổng số bài gửi: 494 Age: 55 Registration date: 26/02/2008 Re: Nguồn Gốc Một Số Địa Danh Miền Nam. by huynhminhthanh on 22/2/2010, 07:48 Phần 2 Tên bắt nguồn từ tiếng Khmer Miền Nam, đặc biệt là khu vực đồng bằng sông Cửu Long, người Việt và người Khmer sống chung với nhau,văn hoá đă ảnh hưởng qua lại lẫn nhau. Điều đó biểu hiện rơ nét qua một số địa danh. Một số nơi, tên gọi nghe qua th́ rất Việt Nam nhưng lại bắt nguồn từ tiếng Khmer; người Việt đă Việt hoá một cách tài t́nh. Cần Thơ Khi đối chiếu địa danh Cần Thơ với tên Khmer nguyên thủy của vùng này là Prek Rusey (sông tre), không thấy có liên quan ǵ về ngữ âm, người nghiên cứu chưa thể vội vàng kết luận là Cần Thơ là một địa danh hoàn toàn Việt Nam và vội đi t́m hiểu căn cứ ở các nghĩa có thể hiểu được của hai chữ Hán Việt "cần" và "thơ". Cần Thơ không phải là từ Hán Việt và không có nghĩa.Nếu ḍ t́m trong hướng các địa danh Việt hoá, người nghiên cứu có thể thấy ngữ âm của Cần Thơ rất gần với ngữ âm của từ Khmer "ḱntho", là một loại cá hăy c̣n khá phổ biến ở Cần Thơ, thông thường được gọi là cá sặc rằn, nhưng người ở Bến Tre vẫn gọi là cá "ḷ tho". Từ quan điểm vững chắc rằng "ḷ tho" là một danh từ được tạo thành bằng cách Việt hoá tiếng Khmer "ḱntho",người nghiên cứu có thể sưu tầm các tài liệu về lịch sử dân tộc, về sinh hoạt của người Khmer xa xưa trong địa phương này, rồi đi đến kết luận là địa danh Cần Thơ xuất phát từ danh từ Khmer "ḱntho". Mỹ Tho Trường hợp Mỹ Tho cũng tương tự. Sự kết hợp hai thành tố có ngữ âm hoàn toàn Việt Nam, "mỹ" và "tho", không tạo nên một ư nghĩa nào theo cách hiểu trong tiếng Việt. Những tài liệu thích ứng về lịch sử và sinh hoạt của người Khmer trong vùng thời xa xưa đă xác định địa phương này có lúc đă được gọi là "Srock Mỳ Xó" (xứ nàng trắng). Ḿnh gọi là Mỹ Tho, đă bỏ đi chữ Srock,chỉ c̣n giữ lại Mỳ Xó thôi. Sóc Trăng Theo cố học giả Vương Hồng Sển, đúng ra phải gọi là Sốc Trăng. Sốc Trăng xuất phát từ tiếng Khmer "Srock Khléang". Srock có nghĩa là xứ, cơi. Khléang là kho chứa vàng bạc của vua. Srock Khléang là xứ có kho vàng bạc nhà vua. Trước kia người Việt viết là Sốc Kha Lăng, sau nữa biến thành Sốc Trăng.Tên Sốc Trăng đă có những lần bị biến đổi hoàn toàn. Thời Minh Mạng, đă đổi lại là Nguyệt Giang tỉnh, có nghĩa là sông trăng (sốc thành sông, tiếng Hán Việt là giang; trăng là nguyệt).Đến thời ông Diệm, lại gọi là tỉnh Ba Xuyên,châu thành Khánh Hưng. Bây giờ trở lại là Sóc Trăng. Băi Xàu Băi Xàu là tên một quận thuộc tỉnh Sóc Trăng. Đây là một quận ven biển nên có một số người vội quyết đoán, cho rằng đây là một trường hợp sai chính tả, phải gọi là Băi Sau mới đúng. Thật ra, tuy là một vùng bờ biển nhưng Băi Xàu không có nghĩa là băi nào cả. Nó xuất phát từ tiếng Khmer "bai xao" có nghĩa là cơm sống. Theo truyền thuyết của dân địa phương, có địa danh này là v́ nơi đây ngày trước, một lực lượng quân Khmer chống lại nhà Nguyễn đă phải ăn cơm chưa chín để chạy khi bị truy đuổi. Kế Sách Kế Sách cũng là một quận của Sóc Trăng. Kế Sách nằm ở gần cửa Ba Thắc (một cửa của sông Củu Long), phần lớn đất đai là cát do phù sa sông Hậu, rất thích hợp cho việc trồng dừa và mía. Cát tiếng Khmer là K'sach, như vậy Kế Sách là sự Việt hoá tiếng Khmer "k'sach". Một số địa danh khác Cái Răng (thuộc Cần Thơ) là sự Việt hoá của "k'ran", tức cà ràn, là một loại bếp ḷ nấu bằng củi, có thể trước kia đây là vùng sản xuất hoặc bán cà ràn. Trà Vinh xuất phát từ "prha trapenh" có nghĩa là ao linh thiêng. Sông Trà Cuông ở Sóc Trăng do tiếng Khmer "Prek Trakum", là sông rau muống (trakum là rau muống). Sa Đéc xuất phát từ "Phsar Dek", phsar là chợ, dek là sắt. Tha La, một địa danh nổi tiếng ở Tây Ninh (Tha La xóm đạo), do tiếng Khmer "srala",là nhà nghỉ ngơi, tu dưỡng của tu sĩ Phật giáo. Cà Mau là sự Việt hoá của tiếng Khmer "Tưck Khmau", có nghĩa là nước đen. Phần 3 Địa danh do công dụng của một địa điểm hay do một khu vực sinh sống làm ăn. Đây là trường hợp phổ biến nhất trong các địa danh. Theo thói quen, khi muốn hướng dẫn hay diễn tả một nơi chốn nào đó mà thuở ban đầu chưa có tên gọi,người ta thường hay mượn một điểm nào khá phổ biến của nơi đó, như cái chợ cái cầu và thêm vào một vào đặc tính nữa của cái chợ cái cầu đó; lâu ngày rồi thành tên, có khi bao trùm cả một vùng rộng lớn hơn vị trí ban đầu. Chợ Phổ biến nhất của các địa danh về chợ là chợ cũ, chợ mới, xuất hiện ở rất nhiều nơi. Sài G̣n có một khu Chợ Cũ ở đường Hàm Nghi đă trở thành một địa danh quen thuộc. Chợ Mới cũng trở thành tên của một quận trong tỉnh An Giang. Kế bên Sài G̣n là Chợ Lớn, xa hơn chút nữa là Chợ Nhỏ ở Thủ Đức.Địa danh về chợ c̣n được phân biệt như sau; - Theo loại hàng được bán nhiều nhất ở chợ đó từ lúc mới có chợ, như: Chợ Gạo ở Mỹ Tho, Chợ Búng (đáng lư là Bún) ở Lái Thiêu, Chợ Đệm ở Long An, Chợ Đũi ở Sài G̣n. - Theo tên người sáng lập chợ hay chủ chợ (độc quyền thu thuế chợ), như: chợ Bà Chiểu, chợ Bà Hom, chợ Bà Quẹo , chợ Bà Rịa. - Theo vị trí của chợ, như: chợ Giữa ở Mỹ Tho, chợ Cầu (v́ gần một cây cầu sắt) ở G̣ Vấp, chợ Cầu Ông Lănh ở Sài G̣n. Xóm là một từ để phân biệt một khu vực trong làng hay một địa phương lớn hơn, về mục tiêu sản xuất, thương mại hay chỉ đơn thuần về vị trí. Đơn thuần về vị trí, trong một làng chẳng hạn, có Xóm Trên, Xóm Dưới, Xóm Trong, Xóm Ngoài, Xóm Chùa, Xóm Đ́nh... Về các mục tiêu sản xuất và thương mại, ngày nay cách phân biệt các xóm chỉ c̣n ở nông thôn mà không c̣n phổ biến ở thành thị. Những địa danh c̣n sót lại về xóm ở khu vực Sài G̣n, Chợ Lớn: vùng phụ cận chợ Bà Chiểu có Xóm Giá, Xóm Gà. G̣ Vấp có Xóm Thơm. Quận 4 có Xóm Chiếu. Chợ Lớn có Xóm Than, Xóm Củi, Xóm Vôi, Xóm Trĩ (Trĩ là những nhánh cây hay thân cây suôn sẻ to cỡ bằng ngón chân cái, dài chừng 2 mét, dùng để làm rào, làm luới hay làm bủa để nuôi tằm). Thủ là danh từ chỉ đồn canh gác dọc theo các đường sông, v́ khá phổ biến thời trước nên "thủ" đă đi vào một số địa danh hiện nay hăy c̣n thông dụng, như:Thủ Đức, Thủ Thiêm, Thủ Ngữ (Sài G̣n), Thủ Thừa (Long An),Thủ Dầu Một (B́nh Dương). Đức, Thiêm, Ngữ, Thừa có lẽ là tên những viên chức được cử đến cai quản các thủ này và đă giữ chức vụ khá lâu nên tên của họ đă được người dân gắn liền với nơi làm việc của họ. C̣n Thủ Dầu Một th́ ở thủ đó ngày xưa có một cây dầu mọc lẻ loi. Bến ban đầu là chỗ có đủ điều kiện thuận tiện cho thuyền ghe ghé vào bờ hoặc đậu lại do yêu cầu chuyên chở, lên xuống hàng. Sau này nghĩa rộng ra cho cả xe đ̣,xe hàng, xe lam... Cũng như chợ, bến thường được phân biệt và đặt tên theo các loại hàng được cất lên nhiều nhất. Một số tên bến đặt theo cách này đă trở thành tên riêng của một số địa phương, như: Bến Cỏ, Bến Súc, Bến Củi ở B́nh Dương. Bến Đá ở Thủ Đức.Bến Gỗ ở Biên Hoà. Ngoài ra bến cũng c̣n có thể được đặt tên theo một đặc điểm nào ở đó, như một loại cây, cỏ nào mọc nhiều ở đó, và cũng trở thành tên của một địa phương, như: Bến Tranh ở Mỹ Tho, Bến Lức ở Long An (đáng lư là lứt, là một loại cây nhỏ lá nhỏ, rễ dùng làm thuốc, đông y gọi là sài hồ). Một số trường hợp khác Có một số địa danh được h́nh thành do vị trí liên hệ đến giao thông, như ngă năm, ngă bảy, cầu, rạch...thêm vào đặc điểm của vị trí đó, hoặc tên riêng của một nhân vật có tiếng ở tại vị trí đó. Ở Sài G̣n có rất nhiều địa danh được h́nh thành theo cách này: Ngả Tư Bảy Hiền, Ngă Năm Chuồng Chó, Ngă Ba Ông Tạ...Ở Trà Vinh có Cầu Ngang đă trở thành tên của một quận. Trường hợp h́nh thành của địa danh Nhà Bè khá đặc biệt, đó là vị trí ngă ba sông, nơi gặp nhau của 2 con sông Đồng Nai và Bến Nghé trước khi nhập lại thành sông Ḷng Tảo. Lúc ṛng, nước của hai con sông đổ ra rất mạnh thuyền bè không thể đi được, phải đậu lại đợi con nước lớn để nương theo sức nước mà về theo hai hướng Gia Định hoặc Đồng Nai. "Nhà Bè nước chảy chia hai, Ai về Gia Định, Đồng Nai th́ về." Tương truyền có ông Thủ Huồng là một viên chức cai quản "thủ" ở vùng đó, tham nhũng nổi tiếng. Có lần nằm mơ thấy cảnh ḿnh chết bị xuống âm phủ phải đền trả những tội lỗi khi c̣n sống. Sau đó ông từ chức và bắt đầu làm phúc bố thí rất nhiều; một trong những việc làm phúc của ông là làm một cái bè lớn ở giữa sông trên đó làm nhà, để sẵn những lu nước và củi lửa. Những ghe thuyền đợi nước lớn có thể cặp đó lên bè để nấu cơm và nghỉ ngơi. Địa danh Nhà Bè bắt nguồn từ đó. Kết Miền Nam là đất mới đối với người Việt Nam, những địa danh chỉ mới được h́nh thành trong vài thế kỷ trở lại đây nên những nhà nghiên cứu c̣n có thể truy nguyên ra nguồn gốc và ghi chép lại để lưu truyền. Cho đến nay th́ rất nhiều địa danh chỉ c̣n lại cái tên mà ư nghĩa hoặc dấu vết nguyên thuỷ đă biến mất theo thời gian. Thí dụ, Chợ Quán ở đường Trần Hưng Đạo, Sài G̣n, bây giờ chỉ biết có khu Chợ Quán, nhà thờ Chợ Quán, nhà thương Chợ Quán...chứ c̣n cái chợ có cái quán đố ai mà t́m cho ra được. Hoặc Chợ Đũi (có một số người tưởng lầm là Chợ Đuổi v́ người buôn bán hay bị nhân viên công lực rượt đuổi) ban đầu chuyên bán đũi, là một thứ hàng dày dệt bằng tơ lớn sợi, bây giờ mặt hàng đó đă biến mất nhưng địa danh th́ vẫn c̣n. Ngoài ra, đất Sài G̣n xưa sông rạch nhiều nên có nhiều cầu, sau này thành phố được xây dựng một số sông rạch bị lấp đi, cầu biến mất, nhưng người dân vẫn c̣n dùng tên cây cũ ở nơi đó để gọi khu đó,như khu Cầu Muối. Và cũng có một số địa danh do phát âm sai nên ư nghĩa ban đầu đă bị biến đổi nhưng người ta đă quen với cái tên được phát âm sai đó nên khi ghi chép lại, vẫn giữ cái tên đă được đa số chấp nhận, như Bến Lức, chợ Búng (Lứt là tên đúng lúc ban đầu, v́ nơi đó có nhiều cây lứt; c̣n chợ Búng nguyên thủy chỉ bán mặt hàng bún, sau này bán đủ mặt hàng và cái tên được viết khác đi). Hồ Đ́nh Vũ huynhminhthanh Members Tổng số bài gửi: 494 Age: 55 Registration date: 26/02/2008 Re: Nguồn Gốc Một Số Địa Danh Miền Nam. by huynhminhthanh on 24/2/2010, 20:24 Phần trên đă nói tới nhiều địa danh của miền Nam, bây giờ là phần bổ túc.Gặp đâu ghi đó. Có những địa danh có thể đă được đề cập ở phần trên nhưng cũng vẫn ghi lại, v́ tôi mới đọc được trong những cuốn sách khác. Thủ Đức Ai chẳng một lần nghe nói đến nem Thủ Đức. Người ta nhắc đến cái địa danh Thủ Đức, Xuân Trường như là một nơi danh thắng để giai nhân, tài tử, tao nhân mặc khách đến đây thưởng thức phong quang. Theo lời truyền khẩu của các vị bô lăo ở địa phương : Khi xưa, có vị thủ đồn đầu tiên ở nơi này tên là Đức. Đến sau, ông Tạ Dương Minh đứng ra qui dân lập chợ buôn bán, nhớ đến công vị thủ đồn tên Đức, nên lấy tên và chức tước của ông mà đặt cho chợ, gọi là chợ Thủ Đức nay đă thành danh. (trích trong cuốn Gia Định Xưa của Huỳnh Minh) G̣ Vấp G̣ Vấp là tên một quận của tỉnh Gia Định. Gọi là G̣ Vấp có ư nghĩa ǵ ? Chúng tôi đă dụng công ra t́m những sử sách và hỏi thăm các vị bô lăo, nhưng chẳng t́m hiểu được ǵ đích xác. Tuy nhiên, theo truyền thuyết, cũng có thể tin được, địa danh mang tên G̣ Vấp, v́ lúc trước nơi ấy là một ngọn đồi trồng cây Vấp (theo tiếng Chàm gọi là Krai, tiếng Việt là Vấp hay Lùn). Thứ cây Vấp là thứ cây mà dân Chàm coi như thần mộc, yểm hộ cho dân tộc Chàm. (trích trong cuốn Gia Định Xưa của Huỳnh Minh) Cây Vấp (tên khoa học là Mesua Ferrea L.) Đồng Ông Cộ Đồng bào ở tỉnh Gia Định từ xưa tới nay thường nghe nói đến tên "Đồng Ông Cộ" nhưng không hiểu rơ cụm từ này do ai đặt ra mà được truyền tụng măi đến ngày nay. Ở miền Nam chúng ta, địa phương nào cũng có nhiều huyền thoại, giai thoại truyền khẩu trong dân gian, lâu ngày trở thành một địa danh. Chúng tôi, người t́nh nguyện vạch bóng thời gian,ghi lại những sự việc xảy ra từng vùng,từng địa phương, để hiến quí bạn đọc hiểu rơ nguồn gốc từ thuở xa xưa nơi địa phương chính ḿnh. Theo một vài vị bô lăo cố cựu sinh quán tại Gia Định, thuật lại sự tích "Đồng ông Cộ" cho chúng tôi biết như sau. Đất Gia Định ngày xưa rộng lớn hoang vu, dân chúng ở rải rác từng nhóm theo ruộng g̣ nổng, rừng cḥi dày đặc,đường sá chưa được khai mở, lối đi vất vả khổ cực. Khu đất "Đồng ông Cộ" này ngày xưa thuộc vùng sát cận trung tâm tỉnh Gia Định. Nó ăn từ chợ (ngă ba trong) dài tới cầu Hang; ṿng ra đường Nguyễn Văn Học, phía bên này cầu B́nh Lợi nó ăn sâu luôn phía trong có hơn 10 cây số, rồi ṿng ra khu Hàng Xanh phía ḷ heo cũ Gia Định chạy dài tới ngă năm B́nh Hoà. Toàn thể khu vực rộng lớn như vậy,thuở xưa không có lấy một con lộ cái quan nào để dân chúng xê dịch. Dân cư trong vùng, sinh sống về nghề ruộng nương, rẫy bái, làm nghề hạ bạc (đánh cá) dọc theo sông cầu B́nh Lợi, cầy Băng Ky bây giờ. Những khoảng đất không được khai phá th́ toàn là rừng chồi cây lùm mọc rậm rạp. Về sau, Tây lấy Gia Định rồi th́ mở mang quốc lộ đi Thủ Đức và khu sát ŕa quốc lộ, ăn sâu vô hằng 5-7 cây số (từ phía Gia Định lên nằm bên tay mặt),được Tây khai phá làm rừng cao su. Toàn thể một khu đồng ruộng mênh mông như vậy, hơn phân nửa đất đai toàn là rừng rậm, dân cư lại ít nên không có nhiều đường ṃn để xê dịch. Dân chúng di chuyển bằng ngựa cũng không tiện chớ đừng nói chi đến dùng xe ḅ hoặc xe trâu. Đây khác hơn mọi nơi là chỗ đó! Mỗi khi dân cư trong vùng này muốn ra tỉnh, lúc đó là thành Gia Định, có việc cần kíp, hoặc rước thày trị bệnh, hoặc tải hàng rẫy, gạo thóc ra chợ bán,hoặc mua đổi các thứ cần thiết đem về dùng.... thật là muôn vạn khó khăn. Chỉ có những trai tráng khoẻ mạnh mới có thể di chuyển nổi hằng mấy chục cây số đường lồi lơm không khác lên thác xuống ghềnh, khu đất này lại nhiều chỗ dốc lên, dốc xuống, đồi nổng..v.v.. Rất ít chỗ được khai phá, thành giồng như xuyên rừng vậy. Mà hễ mỗi lần đi như vậy th́ ruộng nương, rẫy bái ở nhà lại không ai khai phá, làm lụng sản xuất. Lại mỗi lần đi ra thành th́ lại mất ít nhất 2 ngày - 1 ngày đi, 1 ngày về mua bán, đổi chác. Một ngày, bỗng dưng người ta thấy trước cổng nhà của một ông Phú Hộ với nhà ngói 3 gian, 2 chái, 1 dăy nhà bếp, nền đúc cao treo tấm bảng lớn đề mấy chữ : "Đảm nhận 'Cộ' người và hàng hoá đi khắp nơi". Đồng thời với tấm bảng treo lên, ông Phú Hộ trong vùng gọi là ông Ba Phú Hộ truyền thâu dụng tất cả thanh niên vạm vỡ trong toàn khu, hay bất cứ nơi nào,muốn có chuyện làm, ngoài nghề ruộng rẫy. "Cộ người và hàng" ! Đó là một lối tải người và hàng hoá giản tiện hơn cả vơng hay kiệu. Ông Ba Phú Hộ bèn cho dân đan những tấm vạc bằng tre, hai đầu có 4 lóng tre ló ra giống như cái băng ca nhà thương khiêng bệnh, để người đầu trước người đầu gác lên hai vai, khách th́ ngồi ở vạc tre khúc giữa tḥng chân lủng lẳng để người "Cộ" đi.Hàng hoá th́ lại để ở khoảng giữa, thay v́ tấm vạc tre đương th́ nó là một miếng ván dày để có thể chất nhiều đồ mà không bị oằn chính giữa. Người sử dụng muốn mướn chỉ cần cho ông Ba Phú Hộ hay trước, cho biết nhà rồi th́ sáng sớm, khi gà vừa gáy là có dân phu mang "Cộ" đến tận nhà mà rước người, hoặc "Cộ" hàng đi ra thành Gia Định.Từ đó, dân cư bắt đầu xê dịch dễ dàng, không nhọc mệt, bận tâm, hay tốn hao người mỗi khi tải hàng đi ra thành. Rồi th́, thời gian trôi qua, địa danh xuất hiện theo miệng người cư ngụ trong vùng. Khi hỏi: - Ở đâu ? Bèn đáp: - Ở trong đồng ông Ba "Cộ" ! Ông Ba "Cộ" đây có nghĩa là ông Ba Phú Hộ"Cộ" người và hàng hoá. Dần dần, hàng trăm năm sau vùng này được mở mang, nhưng là một vùng rộng lớn, dân chúng quy tụ về càng ngày càng đông lại không có địa danh, nên người ta nhớ ơn ông Ba "Cộ" lập thành vùng này thành địa danh gọi là "Đồng ông Cộ" cho đến ngày nay. ___________________________________________________________________________________ Cộ - danh từ: xe quệt. (td. trâu kéo cộ, một cộ lúa) - động từ: kéo đi, mang chở, khuân lấy (td. cộ lúa từ đồng về nhà) ăn. (td. nồi cơm lớn quá mức tụi tôi đâu có cộ nổi) đảm đương (td. nhiều việc quá liệu ḿnh có cộ nổi khổng) (Theo cuốn Tự Điển Phương Ngữ Nam Bộ.) (Xe quệt, là loại xe dùng trâu hoặc ḅ để lết trên mặt đất. Khung xe bằng tre đặt trên 2 cây trượt. Đầu 2 cây trượt được gông vào càng xe. Người ta dùng dây chăo buộc càng xe vào vai của trâu hoặc ḅ. Đây là phương tiện vận chuyển đường dài chủ yếu dùng trong mùa vụ nông nghiệp, thích ứng với địa h́nh phức tạp.) Xe-cộ là danh từ kép, trong trường này, chữ cộ phải là danh từ để đứng chung với chữ xe. Cái xe và cái cộ cùng là danh từ chỉ một vật dùng để chuyển tải (người hoặc hàng hoá). Giống như danh từ kép chợ-búa, chợ và búa là hai danh từ đồng nghĩa, nhưng chữ búa là từ cổ đă biến mất không ai dùng nữa, chỉ c̣n tồn tại trong từ kép chợ-búa. (trích trong cuốn Gia Định Xưa của Huỳnh Minh) huynhminhthanh Members Tổng số bài gửi: 494 Age: 55 Registration date: 26/02/2008 Re: Nguồn Gốc Một Số Địa Danh Miền Nam. by huynhminhthanh on 26/2/2010, 23:38 Đồng Tháp Mười Chú thích năm 1970. Theo tôi, thuyết dưới đây của ông Lê Hương có phần đáng tin hơn cả. Trong bài Địa danh, di tích, thắng cảnh trong vùng người Việt gốc Miên, tập san Sử Địa số 14, 15 năm 1969, ông viết: "Tháp mười là một trong những ngôi tháp làm bằng đá do vua Jayavarman VII xây cất khắp lănh thổ để thờ vị thần Bà La Môn Lockecvera là vị thần chuyên trị bệnh cho nhân loại. Bên cạnh tháp có những căn nhà sàn gỗ lợp bằng đá mỏng,bằng ngói hay bằng lá thốt nốt để người bịnh nằm dưỡng bệnh do nhân viên y tế hoàng triều coi sóc. Những ngôi tháp được xây dựng dọc theo các con đường lớn trong nước mà ngôi nằm trong đồng Tháp Mười, tính từ địa điểm xuất phát, đứng vào hàng thứ muời. Thời gian trôi qua, tàn phá tất cả các công tŕnh kiến trúc của cổ nhân, dăy nhà gỗ tiêu tan, chỉ c̣n một tượng sư tử đá và một linh phù (linga) cũng bằng đá, dưới bệ có khắc chữ Bắc Phạn (sanscrit) ghi tên Tháp thứ mười. Trong năm 1932, nhà khảo cổ Pháp Parmentier đă đi vào Đồng Tháp bằng ghe và xuồng để đọc những chữ khắc vào đó và phát giác ra ngôi tháp..." (tríchtrong cuốn Bảy Ngày Trong Đồng Tháp Muời của Nguyễn Hiến Lê) Bến Tre Trường hợp h́nh thành tên gọi Bến Tre thật đặc biệt, v́ đó là sự gán ghép giữa tiếng Khmer và tiếng Việt.Xưa kia người Khmer gọi nơi đó là Srok Treay - srok là xứ,treay là cá. Sau người Việt thay chỗ người Khmer đến sinh sống làm chủ chốn đó, biến chữ srok thành Bến nhưng chữ treay không dịch là cá mà phát âm theo tiếng Khmer thành Tre. Quả t́nh nơi đó không có tre mà thật nhiều tôm cá. (theo ông Vương Hồng Sển) Hồ Đ́nh Vũ huynhminhthanh Members Tổng số bài gửi: 494 Age: 55 Registration date: 26/02/2008 Địa danh Saigon - Chợlớn by huynhminhthanh on 2/3/2010, 16:57 (trích Sông núi miền Nam) Đất Nam Việt mà trước đây người ta c̣n gọi là Nam Kỳ,người Tây Phương khi đặt chân lên xứ ḿnh hồi thế kỷ 16 , 17 đă gọi bằng tên Cochinchine hay Đằng Trong. Người ta cũng gọi xứ này là Đồng Nai ( đồng có nhiều nai),Lộc Dă,Lộc Đồng (cùng một nghĩa) hoặc Nông Nại,là nơi mà người Việt ḿnh đặt chân lần đầu tiên năm 1623.Sử chép rằng Chúa Săi Vương Nguyễn phúc Nguyên (1613-1635),đă gả Công chúa Ngọc Vạn,lệnh ái thứ 2,cho vua Cao Miên Chei Chetta II (1618-1626) từ Xiêm trở về lên ngôi báu và đóng đô tại Oulong.Nhờ sự giao hiếu ấy vua Cao Miên mới cho phép người Việt di dân vào Nam Bộ.Chúng ta đă đặt đầu cầu tại Mô Xoài(g̣ trồng xoài),gần Bà Rịa đúng vào năm 1623( Theo Claude Madrolle -Indochine du Sud,Paris 1926). Cũng trong năm này một phái đoàn ngoại giao đă được cử sang Oulong để thương thuyết sự nhượng lại Sở Thuế quan Saigon.Về sau đến đời vua Réam Thip Dei Chan(1642-1659),em vua trước,vị hoàng hậu Việt Nam nói trên đă xin vua Cao Miên cho phép người Việt được quyền khai thác xứ Biên Ḥa năm 1638. Sở dĩ vua Cao Miên đă giao hảo với nước ta và tự ư nhân nhượng một phần nào,là v́ muốn cậy thế lực của triều đ́nh Huế để chế ngự ảnh hưởng của người Xiêm.Như vậy chúng ta đă đến sinh cơ,lập nghiệp,khai khẩn đất đai Nam Bộ là do sự thỏa thuận hoàn toàn của đôi bên,chứ tuyệt nhiên không phải là một sự xâm nhập.Lại nữa nhờ uy thế của chúng ta mà Cao Miên đă đối phó hiệu quả với những tham vọng của nước Xiêm và bảo toàn được nền độc lập của ḿnh. Nói tóm lại sự hiện diện của chúng ta từ hơn 800 năm nay tại Nam bộ rất là hợp t́nh,hợp lư và hợp pháp.Nói một cách khác công cuộc Nam tiến của tổ tiên ta là một sự kiện lịch sử bất di bất dịch,nó hiển nhiên cũng như cuộc Tây tiến của người Âu Châu tại Mỹ Quốc và cuộc Đông tiến của người Anh tai Úc Châu. Con sông Đồng Nai đă đưa ta đến tỉnh Biên ḥa ( ḥa b́nh ở biên cương),một trấn đă được sáp nhập vào nước ta năm 1653.Khoảng đất này xưa được gọi là Đông phố đúng ra là Giăn phố v́ hai chữ Đông và Giăn viết theo chữ Hán hơi giống nhau.Về sau nơi này đă được triều đ́nh Huế giao cho bọn người Trung Hoa gốc Quảng Tây di cư theo hai tướng Trần Thượng Xuyên và Trần An B́nh đến khai khẩn và lập nghiệp năm 1679 tại Cù lao Phố,sau khi nhà Minh bị nhà Thanh lật đổ. Miền trên Biên ḥa th́ có Hố Nai (hố sập nai),Trảng Bom( trảng là một đồi bằng phẳng và rộng rải có trồng nhiều cây chum-bao hom đọc trạnh thành bom,sinh ra một thứ dầu gọi là chaulmougra,dùng để trị phong hủi. Phía dưới là nhà thương điên Nguyễn Văn Hoài ,một nhà bác học đă quả quyết với chúng tôi rằng trong một đời người,số giờ mà chúng ta điên cuồng cộng lại ít nhất cũng được vài năm! Biên Ḥa là quê hương của Đỗ Thành Nhân ,một trong Gia định Tam hùng.Hai người kia là Vơ Tánh quê ở G̣ Công và Nguyễn Huỳnh Đức quê ở Tân An. Biên ḥa là xứ bưởi ḅng ngon ngọt có tiếng nên mới có câu ca dao : Thủy để ngư,thiên biên nhạn Cao khả xạ hề,đê khả điếu, Chỉ kích nhơn tâm bất khả pḥng E sau ḷng lại đổi ḷng, Nhiều tay tham bưởi chê ḅng lắm anh Chúng ta đi ngang qua trước ngọn núi Châu Thới ,cao 65m trên có ngôi chùa Hội sơn,được trùng tu vào đầu thế kỷ thứ 19,nhờ công đức sư Khải Long: Bao giờ cạn lạch Đồng Nai, Nghiêng chùa Châu Thới mới sai lời nguyền ! Rồi đến Thủ Đức với những hồ bơi nước suối,và những gói nem ngon lành.Thủ nhắc lại ngày xưa có những chức quan văn như thủ bạ,thủ hô lo về việc thuế má và nhơn thế bộ.Do đó mà có những địa danh như Thủ Thiêm,Thủ Thừa,Thủ Ngữ v.v.. để nhắc lại tên mấy ông thủ bạ và thủ hộ ngày trước.Miền Thủ Đức lại nhắc cho ta hai câu đối " tréo ḍ" " Xứ Thủ Đức năm canh thức đủ Kẻ cơ thần trở lại Cần Thơ Có lẽ v́ năm canh thức đủ mà có kẻ than thân trách phận tự ḿnh sánh với cái nem Thủ Đức lột trần : Người ta năm chị bảy em Tôi đây như thể chiếc nem lột trần Phía tay mặt là G̣ Vấp,xưa kia là một ngọn đồi trồng cây vấp.Thứ cây này xưa kia được coi như thần mộc,yểm hộ cho dân tộc Chàm.Dă sử thuật lại rằng vào đời vua Chiêm cuối cùng là Pô Romé (1627-1651),vua này muốn vừa ư một ái phi người Việt đă ra lệnh đốn cây Kraik ( vấp) cổ thụ rợp bóng nơi vườn ngự uyển.Hơn một trăm thị vệ lực lưỡng không sao hạ nổi v́ vết ŕu mỗi lần bổ xong th́ khép lại ngay.Nhà vua tức giận cầm lấy ŕu hạ xuống một nhát,tức thời một tiếng rên rỉ vang lên và cây gục xuống giữa một vũng máu.Và cũng từ đó vận khí nước Chiêm suy dần cho đến ngày tàn tạ. Bây giờ ta vào thành phốSaigon,nơi mà 300 năm về trước(1674)tiền đạo quân ta lần đầu tiên đă đặt chân tới,mang theo khẩu hiệu :" Tĩnh vi nông,động vi binh".Quân ta không phải tư động mà đến,chính là do lời yêu cầu khẩn thiết của nhà đương cuộc hồi bấy giờ. Họ khai khẩn đất đai với sức dẻo dai sẵn có,đào sông ng̣i trong vùng đất thấp và đây đó khắp nơi,xây dựng thành tŕ kiên cố. Một trong những công tác quân sự ấy do tướng Nguyễn Đức Đàm xây năm 1772,rồi đến thành tŕ Phan An xây năm 1790,kế đến là thành Gia Định xây năm 1836.Những thành ấy xây đắp với mấy vạn nhân công và bao nhiêu tài trí như đă ghi trong câu ngạn ngữ : Dân đất Bắc Đắp thành Nam: Đông đă là đông! Sầu Tây ṿi vọi! Chúng ta đang ở trung tâm thành phố Saigon ( Sài là củi,g̣n là bông g̣n)chuyển sang chữ nho thành Sài-côn là củi g̣n,v́ chữ nôm g̣n viết là Côn,như Ông Trịnh Hoài Đức (1765-1825) đă ghi trong tác phẩn Gia Định Thống Chí mà hiện nay chúng c̣n một bản dịch ra pháp văn của ông Gabriel Aubaret. Theo một số người khác th́ Saigon có lẽ do chữ Đê Ngạn đọc thành Tai Ngon hay Thay gon theo giọng Quảng Đông hay Tingan theo giọng Triều Châu,dùng để chỉ thành phố do người Tàu lập nên năm 1778 sau khi họ phải rời bỏ Biên ḥa v́ chiến sự giữa Nguyễn Ánh và Tây Sơn,để nhờ sự bảo hộ của quân đội chúa Nguyễn đóng tại Bến Nghé. Nguyên ủy xa hơn cả có lẽ là sự chuyển âm của một danh xưng tối cổ Preikor,có nghĩa là rừng g̣n,một loại cây hiện nay c̣n trồng ở Thủ Đô. Theo Ông Verdeille th́ Saigon có thể là hai chữ nho :Tây Cống đọc chạnh ra,tên này ám chỉ rằng thành phố là phần đất xưa kia đă được các vị vua phía Tây cống hiến cho ta.Ta nên lưu ư rằng tên Siagon chỉ được dùng trong các văn kiện của Pháp kể từ 1784 trở đi mà thôi C̣n danh xưng của Chợ-lớn mà người Tây đọc liền lại là Cholon,nó chỉ ngôi chợ xưa kia nằm trên địa điểm hiện tại của Sở Bưu điện Chợ-lớn kéo dài tới tận Đại Thế Giới cũ.Chợ này lập song song với chợ nhỏ hiện nay c̣n tồn tại với tên chợ Thiếc ở phía trường đua Phú Thọ.Về sau Chợ-lớn được dời tới Chợ-lớn mới do nhà đại phú Quách Đàm xây tặng,tượng họ Quách vẫn c̣n ở giữa đỉnh chợ B́nh Tây Sự biến đổi địa âm dạng của địa danh Saigon đă tùy sự hiện diện liên tiếp của những người quốc tịch khác nhau như Preikor (rừng g̣n),Tai- Ngon hay Thầy g̣n của người Trung Hoa mà ta đọc là Đê-ngan,người phương tây dùng chữ la mă ghi là Saigon từ năm 1784. Hồi xưa tên Saigon chỉ áp dụng cho khu vực Chợ -lớn hiện thời,c̣n chính Saigon bây giờ th́ khi ấy là Bến Nghé (theo Trịnh Hoài Đức,theo các nhà hàng hải Âu Mỹ ,theo bản đồ do ông Trần Văn Học vẽ ngày mùng 4 tháng chạp năm Gia-long thứ 14( 1815) ghi trên vùng Chợ-lớn hiện tại chỗ nhà thương Chợ-Rẫy ba chữ Saigon xứ,khoảng gần Cây Mai và Phước Lâm )Khu Saigon cao ,nằm phía Đồn Đất tức là cái đồn thâu hẹp năm 1836 sau khi Lê Văn Khôi nổi loạn,chắc đă có người ở từ thời thượng cổ,chứng cớ là những khí giới và đồ dùng bằng đá mài t́m thấy khi đào móng nhà thờ Đức Bà.Khu thấp thường gọi là Bến Nghé hay bến Thành. Bến Thành là cái tên ở gần hào thành Gia-Định,nguyên trước có cái rạch nối liền hào thành với sông Bến-Nghé và có cái chợ gọi là chợ Bền Thành.Cái rạch ấy về sau lấp đi thành Đại lộ Nguyễn Huệ và đến bây giờ có câu ca dao như sau : Chợ Bền Thành đèn xanh đèn đỏ, Anh nh́n cho tỏ thấy rơ đèn màu; Lấy em anh đâu kể sang giàu, Rau dưa mắm muối có nơi nào hơn em! Bến Nghé theo Trịnh Hoài Đức là cái bến uống nước của trâu con,do một tên rất cũ là Kompong Krabey ( bến trâu) đă được Việt hóa.Nhưng ông Đốc phủ Trần Quang Tuất (1765-1825) cho rằng nơi đây có lắm con cá sấu chúng thườn kêu nghé nên gọi là Bến Nghé-Trịnh hoài Đức dịch là" Ngưu-tân"Bến Nghé là cái bến sông Saigon có tên là sông Bến Nghé,cũng có tên là Tân B́nh Giang hay là Đức Giang lấy nguồn ở Ban Bót(theo gia-định thống chí) .C̣n cái rạch Bến nghé nối dài bởi kinh Tàu -hủ(Arroyo chinois) ngày xưa có tên là B́nh Dương và chỗ nó chảy ra giáp sông Bến Nghé gọi là Vàm Bến Nghé.Bến Nghé tức là Saigon và khi ta nói Đồng Nai-Bến Nghé tức là nói đến Nam Bộ vậy. Phía đông Saigon có một cái kênh gọi là rạch Thị Nghè hay là rạch Bà Nghè.Bà tên là Nguyễn Thị Canh,con gái thống suất Nguyễn Cửu Văn tức Văn Trường Hầu,đẹp duyên với một ông nghè.Để cho chồng bà tiện đường qua rạch hàng ngày vào làm trong thành,bà cho dựng một chiếc cầu mà dân sự có thể dùng được.Để tỏ ḷng nhớ ơn một bậc nữ lưu,họ đă gọi cầu ấy là cầu Bà Nghè.Đến khi Tây đến đánh thành Saigon,pháo hạm Avalanche tiến vào rạch này đầu tiên nên họ mới gọi là Arroyo de l'Avalanche. Trên rạch Bến Nghé hồi xưa có nhiều chiếc cầu ván dựng tạm cho người qua lại.Chiếc cầu nổi tiếng hơn cả là cầu Ông Lănh,được xây nhờ công ông Lănh binh,thời tả quân Lê Văn Duyệt.C̣n những chiếc cầu khác là Cầu Muối,Cầu Khóm (thơm),Cầu Kho và Cầu học(giếng học).Về các công sự th́ có : Chợ Bến Thành (mới) xây năm 1914 trùng tu năm 1950 Nhà thờ Đức Bà khởi công năm 1877,hoàn thành năm 1883 Sở Bưu Điện và Ṭa án cất năm 1883 Dinh Norodom khởi công ngày chủ nhật 23-2-1868 với sự tham dự dông đảo của dân chúng.Thủy sư Đô Đốc De La Grand́ère với sự hiện diện của kiến trúc sư Hermitte từ HongKong tới,đă đặt viên đá đầu tiên vuông vức mỗi bề nửa mét,trong đó đựng một hộp ch́ chứa nhũng đồng tiền vàng và bạc dập h́nh vua Napoléon III.Đức Giám mục Miche,cai quản địa phận,với một số đông con chiên,đă ban phép lành và đọc một diễn văn lời lẽ cao quư đă làm cử tọa đặc biệt chú ư.Công cuộc xây cất trên một khoảng đất rộng 14 mẫu tây đă phải dùng tới hai triệu viên gạch,và cái móng dày tới 3,5m tốn mất 2.436 thước khối đá xanh Biên Ḥa.Công tác đă hoàn thành năm 1875 và người đầu tiên đến ở trong dinh đó là Thủy sư Đô Đốc Roze.Sau 84 năm Pháp thuộc,ngày 7-9-1954 Đại tướng Ely,Cao ủy Pháp đă trả dinh thự này cho Chính phủ Việt Nam thời bấy giờ. Ṭa Đô Sảnh (1901-1908) trên có một gác chuông do họa sĩ Ruffier trang trí mặt tiền Viện Bảo Tàng Quốc Gia xây năm 1927,khánh thành ngày 1-1-1929 ,bị vụ nổ nhà thuốc súng làm hư hại ngày 8-3-1946 và được hoàn lại chính phủ Việt Nam ngày 19-9-1951 thu thập tới 4.000 cổ vật đă kê thành mục lục và tŕnh bày trong 14 gian pḥng. Vườn Cầm Thảo (Sở Thú)tương tự với rừng Vincennes ở Pháp,được lập năm 1864.Sau khi đă san bằng,việc đứa thú tới nhốt nơi đó hoàn tất năm 1865.Ngày 28-3-1865 nhà thực vật học Pierre đảm nhiệm việc điều khiển vườn Cầm Thảo Saigon và ngày nay nhiều giống cây ở xứ ta c̣n mang tên nhà bác học ấy. Đây đó ta c̣n gặp một số địa danh nguồn gốc Tây Phương như : Ba-Son (Arsenal) trong có một bến sửa tàu(bassin de radoub) xây bằng ximăng cốt sắt từ năm 1858,và bến tàu nổi được hạ thủy tháng giêng năm 1866.Chữ Ba-Son do chữ Bassin mà ra. Vườn Bờ Rô(do chữ Jardin des Beaux Jeux)hay là vườn Ông Thượng,xưa kia là hoa viên của Tổng Trấn Lê Văn Duyệt,nay là vườn Tao Đàn. Dakao là biến danh của Đất Mộ(đất của lăng) Lăng-tô là biến danh của Tân thuận,tên một làng mà dân Saigon thường đến hóng mát(pointe des flaneurs). Bây giờ chúng ta rời Saigon xuống đ̣ Thủ-Thiêm qua bên kia sông xem địa phận mà chính phủ đang trù định một chương tŕnh kiến thiết rộng lớn,để biến nơi này thành một khu vực nguy nga tráng lệ. Con đ̣ Thủ-Thiêm ngày xưa đă hấp dẫn một số đông những chàng trai trẻ : Bắp non mà nướng lửa ḷ, Đố ai ve được con đ̣ Thủ-Thiêm. nhưng một ngày kia chàng trai phải ra đi trong khói lửa chiến tranh,đến khi trở về th́ than ôi : Ngày đi trăm hoa hẹn ḥ, Ngày về vắng bóng con đ̣ Thủ-Thiêm! Từ Thủ-Thiêm chúng ta thẳng tiến đến một nơi gọi là Nhà Bè hay là Ngă Ba Sông Nhà Bè,nơi mà con sông Đồng Nai gặp con sông Saigon cũng gọi là sông Bến Nghé.Ngày xưa ở chỗ ấy ông Thủ khoa Hườn có lập nhà bè để bố thí lúa gạo cho những kẻ lỡ đường và ngày nay c̣n vọng lại mấy câu ḥ t́nh tứ của cô lái miền quê: Nhà Bè nước chảy chia hai: Ai về Gia định Đồng Nai th́ về! Rời Nhà Bè ,chúng ta trở lại Saigon để đi về miền Bà Chiểu,một vùng ngoại ô trù mật ở phía đông ,chúng ta phải đi qua một cái cầu gọi là Cầu Bông,v́ xưa kia ở gần đó Tả Quân Lê Văn Duyệt có lập vườn hoa rất ngoạn mục.Bà Chiểu tỉnh lỵ Gia định,nổi tiếng về lăng Tả Quân Lê Văn Duyệt (1764-1832),một vĩ nhân được người Việt và người Tàu tôn thờ như một vị thần thánh. Theo Trương Vĩnh Kư th́ Bà Chiểu là một trong 5 bà vợ của ông Lănh Binh đă xây cái cầu ông Lănh.Theo phương pháp kinh tế tự túc mà các cụ ngày xưa thường áp dụng,ông đă lập ra 5 cái chợ,giao cho mỗi bà cai quản một cái : Bà Rịa (Phước Lễ),Bà Chỉểu (Gia-Định),Bà Hom (Phước Lâm),Bà Quẹo (
For further information
and booking tours,
please contact

Để biết thêm chi tiết và đặt tour, xin vui lòng liên hệ

VÕ TẤN LẬP
Mail: votanlap@yahoo.com
Mobile: +84.127.5555.666
+84.958.04.05.06
This website was created for free with Own-Free-Website.com. Would you also like to have your own website?
Sign up for free