Lịch sử Việt Nam
Loạt bài
Lịch sử Việt Nam |
 |
Thời tiền sử
|
Hồng Bàng
|
An Dương Vương
|
Bắc thuộc lần I (207 TCN - 40)
Nhà Triệu (207 - 111 TCN) |
Hai Bà Trưng (40 - 43) |
Bắc thuộc lần II (43 - 541)
Khởi nghĩa Bà Triệu |
Nhà Tiền Lý và Triệu Việt Vương (541 - 602) |
Bắc thuộc lần III (602 - 905)
Mai Hắc Đế
Phùng Hưng |
Tự chủ (905 - 938)
Họ Khúc
Dương Đình Nghệ
Kiều Công Tiễn |
Nhà Ngô (938 - 967)
Loạn 12 sứ quân |
Nhà Đinh (968 - 980) |
Nhà Tiền Lê (980 - 1009) |
Nhà Lý (1009 - 1225) |
Nhà Trần (1225 - 1400) |
Nhà Hồ (1400 - 1407) |
Bắc thuộc lần IV (1407 - 1427)
Nhà Hậu Trần
Khởi nghĩa Lam Sơn |
Nhà Hậu Lê (1428 - 1788) |
Lê sơ |
Lê
trung
hưng |
Nhà Mạc |
Trịnh-Nguyễn
phân tranh |
|
Nhà Tây Sơn (1778 - 1802) |
Nhà Nguyễn (1802 - 1945)
Pháp thuộc (1887 - 1945)
Đế quốc Việt Nam (1945) |
Chiến tranh Đông Dương (1945 - 1975)
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
Quốc gia Việt Nam
Việt Nam Cộng hòa
Cộng hòa Miền Nam Việt Nam |
Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (từ 1976) |
Xem thêm
- Vua Việt Nam
- Nguyên thủ Việt Nam
- Các vương quốc cổ
- Niên biểu lịch sử Việt Nam
|
|
sửa |
|
Lịch sử Việt Nam được nhiều nhà sử học ghi nhận là có bề dày khoảng 3000 đến 4000 năm hoặc nhiều hơn thế [1].
Các nhà khảo cổ đã tìm thấy các di tích chứng minh loài người đã từng sống tại Việt Nam từ thời kỳ Đồ đá cũ. Vào thời kỳ Đồ đá mới, các nền văn hóa Hòa Bình - Bắc Sơn tại vùng này đã phát triển về chăn nuôi và nông nghiệp, đặc biệt là nghệ thuật trồng lúa nước.
Những người Việt tiền sử trên vùng châu thổ sông Hồng-Văn minh sông Hồng và sông Mã này đã khai hóa đất để trồng trọt, tạo ra một hệ thống đê điều để chế ngự nước lụt của các sông, đào kênh để phục vụ cho việc trồng lúa và đã tạo nên nền văn minh lúa nước và văn hoá làng xã.
Mục lục
- 1 Tiền sử
- 2 Thời Hồng Bàng
- 2.1 Nước Xích Quỷ
- 2.2 Nước Văn Lang
- 2.3 Nước Âu Lạc
- 3 Thời Bắc thuộc
- 3.1 Nam Việt
- 3.2 Nhà Hán
- 3.3 Sau nhà Hán
- 4 Thời phong kiến độc lập
- 4.1 Xây dựng và bảo vệ đất nước
- 4.2 Chia cắt và tái thống nhất lãnh thổ
- 5 Thời Pháp thuộc
- 6 Tuyên bố độc lập
- 7 Chiến tranh Đông Dương
- 8 Việt Nam trong bối cảnh Chiến tranh Lạnh
- 8.1 Đất nước chia cắt
- 8.2 Chiến tranh lan rộng
- 9 Thống nhất và độc lập
- 9.1 Giai đoạn mới gần đây
- 10 Sự thay đổi tên
- 11 Ghi chú
- 12 Xem thêm
- 13 Tham khảo
- 14 Liên kết ngoài
|
Tiền sử
Khu vực nay là Việt Nam đã có người ở từ thời kỳ Đồ đá cũ. Các nhà khảo cổ đã tìm ra các nơi cư ngụ tại Thanh Hóa vài nghìn năm trước. Các nhà khảo cổ đã liên kết sự khởi đầu của nền văn minh người Việt ở cuối thời kỳ Đồ đá mới và đầu thời kỳ đồ đồng. Nền văn hóa Phùng Nguyên, nằm xung quanh tỉnh Vĩnh Phúc và Phú Thọ ngày nay, xuất hiện từ năm 2000 TCN đến năm 1400 TCN. Đến khoảng 1200 TCN, sự phát triển của kỹ thuật trồng lúa nước và đúc đồ đồng trong khu vực sông Mã và đồng bằng sông Hồng đã dẫn đến sự phát triển của nền văn hóa Đông Sơn, nổi bật với các trống đồng. Các vũ khí, dụng cụ và trống đồng được khai quật của văn hóa Đông Sơn cho thấy sự ảnh hưởng lên Đông Nam Á và cũng minh chứng cho việc kỹ thuật đúc đồ đồng bắt nguồn từ đây. Nhiều mỏ đồng nhỏ xưa đã được khai quật ở miền Bắc Việt Nam. Nền văn hóa Đông Sơn có điểm giống nhau với những nền văn hóa được khai quật khác tại Đông Nam Á. ở đây các nhà khảo cổ đã tìm thấy quan tài và lọ chôn hình thuyền, nhà sàn, và bằng chứng về phong tục ăn trầu và nhuộm răng đen.
Thời Hồng Bàng
Nước Xích Quỷ
Theo một số tài liệu cổ sử chưa có căn cứ chắc chắn[2]., các tộc người Việt cổ (Bách Việt) lập quốc đầu tiên ở miền Lĩnh Nam, bao gồm một vùng rộng lớn phía nam sông Trường Giang của Trung Quốc hiện nay đến vùng đồng bằng sông Hồng, sông Mã ở miền bắc Việt Nam. Truyền thuyết cho biết nhà nước của người Việt được hình thành từ năm 2879 TCN tại vùng Hồ Động Đình (Hồ Nam-Trung Quốc), đến thời Xuân Thu-Chiến Quốc (thế kỷ 8 TCN đến thế kỷ 3 TCN) do các sức ép từ các vương quốc Sở, Tần ở miền bắc Trung Quốc và làn sóng người Hoa Hạ chạy tỵ nạn chiến tranh từ miền Bắc xuống nên dần dần các tộc người Việt cổ bị mất lãnh thổ, bị đồng hóa vào người Hoa Hạ. Đỉnh điểm là vào thời Tần Thủy Hoàng lãnh thổ của Trung Hoa kéo xuống tận ven biển phía nam Quảng Đông.
Vương quốc của các tộc người Việt cổ (Xích Quỷ) thời kỳ này có thể nói đây là một "liên bang" lỏng lẻo giữa các nhóm tộc Việt khác nhau như Điền Việt ở Vân Nam, Dạ Lang ở Quý Châu, Mân Việt ở Phúc Kiến, Đông Việt ở Triết Giang, Nam Việt ở Quảng Đông, Âu Việt (Tây Âu) ở Quảng Tây, Lạc Việt ở miền bắc Việt Nam...
Nước Văn Lang
Lãnh thổ nước Văn Lang năm 500 TCN
Theo tục truyền, các đời Hùng Vương trị vì nước Văn Lang của người Lạc Việt (tên này được ghi trong sử sách người Trung Quốc) được thành lập vào khoảng thế kỷ 7 TCN tại khu vực miền bắc Việt Nam ngày nay, đóng đô tại Phong Châu (Phú Thọ). Người Lạc Việt được xem như là tổ tiên của người Việt Nam hiện đại.
-
Các tài liệu nghiên cứu hiện đại[4] phần lớn đều đồng ý theo Việt sử lược về một vương quốc Văn Lang của người Lạc Việt có niên đại thành lập vào thế kỷ 7 TCN cùng thời Chu Trang Vương (696 TCN - 682 TCN) ở Trung Quốc. Vương quốc này tồn tại ở vùng đồng bằng sông Hồng, sông Mã, sông Lam và đã có giao lưu với nước Việt (Yue) của Việt vương Câu Tiễn (Lạc Câu Tiễn) ở khu vực hạ lưu sông Trường Giang - Trung Quốc ngày nay.
Nước Âu Lạc
Đến thế kỷ thứ 3 TCN, Thục Phán từ nước Thục (phía đông bắc Văn Lang) của người Âu Việt đã cướp ngôi vua Hùng Vương thứ 18 và lập nên nước Âu Lạc, đóng đô tại Cổ Loa, ngày nay là huyện Đông Anh (Hà Nội).
Thời Bắc thuộc
Nam Việt
Cuối thời Tần, Triệu Đà (người nước Triệu - thời Chiến Quốc) là quan úy quận Nam Hải (Quảng Đông ngày nay) nhân khi nhà Tần rối loạn sau cái chết của Tần Thủy Hoàng (210 BC) đã cát cứ vùng đất quận Nam Hải, đánh chiếm các khu vực lân cận như Âu Lạc, Quế Lâm (Quảng Tây).
Khi Lưu Bang lên ngôi nhà Hán, Triệu Đà không phục và thống nhất các khu vực ông quản lý ở Quảng Đông, Quảng Tây và miền Bắc Việt Nam ngày nay và tạo ra một vương quốc tên là Nam Việt (南越). Chữ "Việt" (越 Yue) là tên được người Trung Quốc đặt cho những người sống ở vùng đất phía nam của đế quốc nhà Hán, kể cả thổ dân đồng bằng sông Hồng. Triệu Đà chia vương quốc Nam Việt thành 9 quận quân sự, ba quận phía nam - Hợp Phố, Giao Chỉ, Cửu Chân - là phần đất của Âu Lạc. Các Lạc hầu vẫn cai quản vùng châu thổ sông Hồng, nhưng với địa vị chư hầu cho Nam Việt.
Nhà Hán
Lãnh thổ Việt Nam thuộc nhà Hán năm 87 TCN
Năm 111 TCN, quân của Hán Vũ Đế xâm lược nước Nam Việt và sáp nhập Nam Việt vào đế chế Hán. Người Trung Quốc muốn cai quản miền châu thổ sông Hồng để có điểm dừng cho tàu bè đang buôn bán với Ấn Độ và Indonesia[cần dẫn nguồn]. Trong thế kỷ thứ nhất, các tướng Lạc vẫn còn được giữ chức. Trong thế kỷ thứ 1, Trung Quốc bắt đầu chính sách đồng hóa các lãnh thổ bằng cách tăng thuế và cải tổ luật hôn nhân để biến Việt Nam thành một xã hội phụ hệ để dễ tiếp thu quyền lực chính trị hơn. Một cuộc khởi nghĩa do Hai Bà Trưng lãnh đạo đã nổ ra ở quận Giao Chỉ, tiếp theo sau đó là các quận Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố và các địa phương khác của vùng Lĩnh Nam (mà theo cổ sử Việt ghi nhận là có tất cả 65 thành trì) hưởng ứng trong năm 40. Sau đó nhà Hán phái tướng Mã Viện sang đàn áp cuộc khởi nghĩa này. Sau ba năm giành độc lập, cuộc khởi nghĩa bị tướng Mã Viện đàn áp. Do bị cô lập và quân đội chưa tổ chức hoàn thiện nên không đủ sức chống cự lại quân do Mã Viện chỉ huy, Hai Bà Trưng đã tuẫn tiết trên dòng sông Hát để giữ vẹn khí tiết. Cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng được coi là sự kiện đấu tranh giành lại quyền độc lập đầu tiên của dân tộc Việt Nam.
Sau nhà Hán
Tiếp theo sau nhà Hán, các triều đại phong kiến Trung Quốc khác thay nhau đô hộ Việt Nam. Các triều đại này cố gắng đồng hóa dân tộc Việt Nam theo tộc Hán. Tuy nhiên, sau 1000 năm Bắc thuộc, người Việt giành được độc lập vào năm 938.
Trong hơn 1.000 năm bị Trung Hoa cai trị, người Việt chịu ảnh hưởng bởi thể chế chính trị, xã hội và văn hóa của các chế độ phương Bắc.
Người Việt cũng chịu ảnh hưởng của Phật giáo Đại thừa đang phát triển ở Đông Á. Mặc dù lúc đó Đông Nam Á đã chịu ảnh hưởng của Ấn Độ giáo và Phật giáo Nguyên thủy. Phật giáo Đại thừa được hòa trộn với Nho giáo, Lão giáo và thêm vào đó là các tín ngưỡng dân gian địa phương.
Thời phong kiến độc lập
Xây dựng và bảo vệ đất nước
Lãnh thổ Việt Nam mở rộng sau các cuộc Nam tiến (1069-1757)
Năm 938, Việt Nam giành được độc lập. Năm 968, đặt tên nước là Đại Cồ Việt, năm 1054 đổi tên thành Đại Việt. Đại Việt trải qua nhiều chế độ phong kiến: nhà Lý (thế kỷ 11, 12), nhà Trần (thế kỷ 13, 14), nhà Hồ (đầu thế kỷ 15), nhà Hậu Lê (thế kỷ 15, 16, 17, 18), nhà Tây Sơn (cuối thế kỷ 18).
Trong thời kỳ này các vương triều Trung Hoa mang quân sang xâm lược, nhưng đều bị Việt Nam đẩy lùi: Lê Hoàn và Lý Thường Kiệt đẩy lui 2 lần quân nhà Tống (thế kỷ 10 và 11), nhà Trần đánh bại quân nhà Nguyên 3 lần (thế kỷ 13). Đầu thế kỷ 15 nhà Minh xâm chiếm được Việt Nam và cai trị trong 20 năm, nhưng cũng bị Lê Lợi nổi lên đánh đuổi và thành lập nhà Hậu Lê, cuối thế kỷ 18 nhà Thanh sang xâm lược cũng bị Nguyễn Huệ đánh bại. Tuy nhiên, từ thế kỷ 18 trở đi phong kiến Việt Nam đã bắt đầu suy yếu.
Lịch sử Việt Nam, từ khi Đại Việt độc lập vào thế kỷ 10, mang dấu ấn của hai khuynh hướng chính[5]. Dấu ấn đầu là sự phát triển nhà nước Nho giáo theo mô hình kiểu Trung Hoa. Sang đến thế kỷ 15 thì Đại Việt có một cơ cấu chính quyền tương tự nước láng giềng Trung Hoa; cơ cấu luật pháp, hành chính, văn chương và nghệ thuật đều theo kiểu Trung Hoa.
Dấu ấn thứ hai là sự bành trướng xuống phương Nam. Với một quân đội có tổ chức hơn, cuộc Nam tiến nhằm tìm đất nông nghiệp để cung cấp lương thực cho sự gia tăng dân số của Đại Việt. Giữa thế kỷ 11 và 17, Đại Việt đã tiêu diệt vương quốc Champa (ngày nay là miền Trung Việt Nam). Tiếp đó (thế kỷ 17, 18) xâm chiếm đồng bằng Nam Bộ của người Khmer và vào đầu thế kỷ 19 cạnh tranh giành ảnh hưởng với Thái Lan ở Campuchia.
Việt Nam trong thời phong kiến phát triển vẫn dựa vào nông nghiệp mà chủ yếu là trồng lúa nước để cung cấp lương thực, từng triều đại đã lần lượt cho đắp đê ngăn lũ lụt, đào kênh dẫn nước cũng như giao thông đi lại, khai hoang các vùng đất đồng bằng ven biển để tăng diện tích trồng trọt. Các hoạt động sản xuất, thương mại hầu như chưa phát triển mặc dù vào thời nhà Lý, nhà Trần đã có buôn bán với các vương quốc trong vùng tại cảng Vân Đồn (Quảng Ninh), thời Trịnh - Nguyễn buôn bán với Châu Âu tại các trung tâm như Thăng Long, Hội An.
Chia cắt và tái thống nhất lãnh thổ
Vào thế kỷ 16, Việt Nam có nội chiến và đến thế kỷ 17 thì bị chia đôi: chúa Trịnh ở miền Bắc và chúa Nguyễn ở miền Nam. Lấy ranh giới là sông Gianh thuộc châu Bố Chính, nay là phía bắc Quảng Bình. Trong hai thế kỷ 17 và 18, các chúa Nguyễn ở miền Nam tiếp tục mở rộng đất nước về phương Nam.
Sự khác biệt về văn hóa giữa hai miền có lẽ bắt nguồn từ cuộc Nam tiến này. Văn hóa Nho giáo trong chính quyền miền Nam không phát triển nhiều, do họ chịu ảnh hưởng phần nào của văn hóa Champa, Khmer và Thượng-Tây Nguyên. Ngày nay, người miền Bắc tiết kiệm, bảo vệ nhóm, giỏi ứng xử; người miền Nam thoải mái trong đời sống, trong suy nghĩ và thẳng thắn. Tổ chức hành chính cũng khác biệt. Cách tổ chức chính quyền tỉ mỉ ở miền Bắc đã được đơn giản hóa ở miền Nam[6].
Thời kỳ đất nước chia thành 2 lãnh thổ riêng biệt Đàng Ngoài và Đàng Trong cũng là thời kỳ hoạt động ngoại thương sôi động, cả Đàng Ngoài và Đàng Trong đều tham gia vào hệ thống giao thương toàn cầu bởi các thương nhân Châu Âu, Nhật Bản, Trung Hoa đến Đại Việt buôn bán. Người Hà Lan, Anh, Pháp lập các thương điếm tại Kẻ Chợ (Hà Nội), người Bồ Đào Nha, Anh, Nhật Bản đặt các thương điếm tại Fairo (Hội An). Các mặt hàng chính được xuất khẩu từ Đại Việt là tơ lụa, hồ tiêu, đồ sứ. Tuy nhiên sang đến thế kỷ 18 thì hoạt động thương mại giảm sút ở cả Đàng Trong lẫn Đàng Ngoài[7].
Việt Nam thời Trịnh - Nguyễn phân tranh năm 1650
Từ giữa thế kỷ 18, các cuộc chiến liên tục với Xiêm, Chân Lạp ở Đàng Trong cũng như các cuộc tranh chấp ở Đàng Ngoài làm cho đời sống người dân thêm cùng quẫn. Nhiều cuộc khởi nghĩa của nông dân đã nổ ra, song phần lớn chịu thất bại. Tới phong trào nổi dậy của Tây Sơn bùng nổ năm 1771 tại Quy Nhơn - Bình Định là một cuộc "cách mạng nhân dân"[cần dẫn nguồn] rộng lớn đánh bại hai chế độ cai trị của hai họ Nguyễn, Trịnh, chấm dứt việc chia đôi đất nước, cũng như bãi bỏ nhà Hậu Lê vốn chỉ còn trên danh nghĩa. Nguyễn Huệ trở thành vua Quang Trung của nhà Tây Sơn, đã đánh bại 5 vạn quân Xiêm (1784) tại miền Nam và 20 vạn quân Mãn Thanh (1789) xâm lược tại miền Bắc.
Cuộc nổi dậy đẩy lùi cuộc xâm chiếm của Trung Hoa, thống nhất hầu hết lãnh thổ, và thay đổi hệ thống thương gia người Hoa ở Việt Nam. Họ chỉ thực sự bị lúng túng khi điều hành chính quyền thực tế[cần dẫn nguồn]. Do vậy triều Tây Sơn ngày càng suy yếu sau khi Quang Trung chết năm 1792, nội bộ lục đục khiến thế nước càng ngày càng yếu, lòng người ly tán.
Một người thuộc dòng dõi chúa Nguyễn ở miền Nam là Nguyễn Phúc Ánh, với sự hậu thuẫn của một số người Pháp, đã đánh bại được nhà Tây Sơn vào năm 1802. Ông lên làm vua, lấy niên hiệu là Gia Long và trở thành vua đầu tiên cai trị một đất nước thống nhất với hai đồng bằng phì nhiêu nối với nhau bằng một dải duyên hải.
Gia Long (1802-1820) đóng đô ở Huế (trung tâm của đất nước). Ông cho xây dựng Huế tương tự như Tử Cấm Thành ở Bắc Kinh. Gia Long và con trai Minh Mạng (cai trị 1820-1841) đã cố gắng xây dựng Việt Nam theo khái niệm và phương pháp hành chính Trung Hoa. Nhưng cố gắng này về lâu dài đã gây ra hậu quả xấu, đó là đất nước kém phát triển rồi dẫn đến mất nước[cần dẫn nguồn]. Từ thập niên 1830, giới trí thức Việt Nam (đại diện tiêu biểu là Nguyễn Trường Tộ) đã đặt ra yêu cầu học hỏi phương Tây để phát triển công nghiệp - thương mại, nhưng họ chỉ là thiểu số. Đáp lại, vua Minh Mạng và những người kế tục Thiệu Trị (1841-1847) và Tự Đức (1847-1883) chọn chính sách đã lỗi thời là coi trọng phát triển nông nghiệp (dĩ nông vi bản) và ngăn cản Thiên chúa giáo, tôn giáo từ phương Tây.
Những nhà truyền giáo người Pháp thực ra đã có mặt ở Việt Nam từ giữa thế kỷ 17. Họ cũng hỗ trợ nhân lực và vật lực cho nhà Nguyễn trong cuộc chiến với nhà Tây Sơn. Đến giữa thế kỷ 19, có khoảng 450.000 người cải đạo sang Thiên chúa giáo[cần dẫn nguồn]. Chính quyền thực sự lo ngại sự hình thành của một tôn giáo có tổ chức nên đã sát hại những người theo đạo Thiên chúa giáo và san bằng nhiều xóm đạo.
Thời Pháp thuộc
Quân Pháp tấn công quân Thanh tại Lạng Sơn năm 1885
Năm 1858, Hải quân Pháp đổ bộ vào cảng Đà Nẵng và sau đó xâm chiếm Sài Gòn. Năm 1862, Tự Đức ký hiệp ước nhượng ba tỉnh miền Đông cho Pháp. Năm 1867, Pháp chiếm nốt ba tỉnh miền Tây kế tiếp để tạo thành một lãnh thổ thực dân Cochinchine (Nam kỳ). Từ năm 1873 đến năm 1886, Pháp xâm chiếm nốt những phần còn lại của Việt Nam qua những cuộc chiến phức tạp ở miền Bắc. Miền Bắc khi đó rất hỗn độn do những mối bất hòa giữa người Việt và người Hoa lưu vong. Chính quyền Việt Nam không thể kiểm soát nổi mối bất hòa này. Cả Trung Hoa và Pháp đều coi khu vực này thuộc tầm ảnh hưởng của mình và gửi quân đến đó, nhưng cuối cùng thì người Pháp đã chiến thắng.
Pháp tuyên bố là họ sẽ bảo hộ Bắc kỳ (Tonkin) và Trung kỳ (Annam), nơi họ tiếp tục duy trì các hoàng đế bù nhìn cho đến Bảo Đại (làm vua từ 1926 đến 1945 và quốc trưởng từ 1949 đến 1956). Năm 1885, các quan lại Việt Nam tổ chức phong trào kháng chiến Cần Vương chống Pháp nhưng thất bại.
Vào năm 1887, hoàn tất quá trình xâm lược Việt Nam, người Pháp đã tổ chức ra một bộ máy cai trị khá hoàn chỉnh từ trung ương cho đến địa phương. Ở trung ương là Phủ toàn quyền Đông Dương. Đứng đầu Phủ toàn quyền gọi là Toàn quyền Đông Dương, là người có quyền hành cao nhất trong thể chế chính trị Pháp trên toàn cõi Bắc kỳ, Trung kỳ, Nam kỳ và Cao Miên. Đứng đầu ở 3 kỳ là: Thống đốc Nam kỳ, Khâm sứ Trung kỳ và Thống sứ Bắc kỳ, cả ba đều nằm dưới quyền giám sát và điều khiển tối cao của viên Toàn quyền Đông Pháp, trực thuộc bộ Thuộc địa. Đến năm 1893 quyền kiểm soát của Toàn quyền Đông Pháp được mở rộng thêm, bao gồm cả Ai Lao.
Bản đồ Đông Dương năm 1886
Những người Việt cấp tiến đã thành lập Việt Nam Quốc dân đảng (giống Quốc Dân Đảng ở Trung Hoa) năm 1927. Tuy nhiên, đến năm 1930, sau khi cuộc khởi nghĩa Yên Bái thất bại, Việt Nam Quốc dân đảng bị suy yếu nghiêm trọng. Cùng năm, một số thanh niên Việt Nam theo chủ nghĩa Marx-Lenin thành lập Đảng Cộng sản Đông Dương, nhưng cũng mau chóng trở thành mục tiêu tiêu diệt của Pháp mặc dù tổ chức của họ thân thiện với Mặt trận Bình dân trong chính quyền Pháp.
Nhật Bản tấn công Đông Dương vào năm 1940 và nhanh chóng thỏa thuận được với chính quyền Vichy ở Pháp để cho Nhật toàn quyền cai trị Đông Dương. Chính quyền thực dân Pháp chỉ tồn tại đến tháng 3 năm 1945 khi Nhật tấn công toàn bộ Đông Dương. Ngay sau đó, Nhật thiết lập một chính quyền Bảo Đại bù nhìn với chính phủ do một nhà nho uy tín là Trần Trọng Kim đứng đầu và quốc kỳ là cờ quẻ ly.
Việt Minh (viết tắt của Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội) thành lập năm 1941 với vai trò một mặt trận của Đảng Cộng sản Đông Dương được điều hành từ Pắc Bó (ở biên giới Việt-Trung) bởi Hồ Chí Minh khi ông trở về nước lần đầu tiên kể từ 1911 (năm ông rời Việt Nam), mặc dù ông có liên hệ với những người Cộng sản trong nước trong các thập niên 1920 và 1930.
Đầu năm 1945, Việt Nam rơi vào một tình trạng hỗn loạn. Chiến tranh đã làm kiệt quệ nền kinh tế, người Nhật chiếm lấy lúa gạo và các sản phẩm khác, bắt dân phá lúa trồng đay để phục vụ chiến tranh, cộng thêm thiên tai, nạn đói (Nạn đói Ất Dậu) đã xảy ra tại Bắc kỳ và Trung kỳ. Người ta ước tính rằng đã có khoảng hai triệu người chết vì nạn đói này.
Tuyên bố độc lập
Ngay sau khi Nhật Bản đầu hàng quân Đồng Minh, lực lượng Việt Minh (dưới ngọn cờ độc lập dân tộc hơn là xã hội chủ nghĩa) đã tổ chức thành công cuộc Cách mạng tháng Tám, giành lấy quyền lực ở miền Bắc và miền Trung Việt Nam. Họ kém thành công hơn ở miền Nam. Ngày 2 tháng 9 năm 1945, Hồ Chí Minh tuyên bố Việt Nam thống nhất và độc lập với tên gọi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Đầu năm 1946, một cuộc bầu cử đã được tổ chức. Những người Cộng sản chiếm ưu thế, song các phe phái khác cũng được mời tham gia chính phủ một cách rộng khắp. Quốc kì được chọn là cờ đỏ, sao vàng 5 cánh.
|